“Chúa đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, và cho họ dầu hoan lạc”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: Vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương; báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân; công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, và ngày báo oán của Thiên Chúa chúng ta; an ủi mọi kẻ ưu phiền, đem cho các kẻ buồn phiền ở Sion triều thiên thay tro bụi, dầu vui mừng thay tang chế, áo hân hoan thay tâm hồn sầu muộn.
The Lord GOD has given me a well-trained tongue, That I might know how to speak to the weary a word that will rouse them. Morning after morning he opens my ear that I may hear; And I have not rebelled, have not turned back.
“Tôi đã không che mặt tránh những người chửi mắng, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải thẹn thùng”.
(Bài ca thứ ba của người Tôi Tớ Chúa)
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu, tôi đã không che mặt giấu mày, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi.
Hear me, O islands, listen, O distant peoples. The Lord called me from birth, from my mother’s womb he gave me my name. He made of me a sharp-edged sword and concealed me in the shadow of his arm. He made me a polished arrow, in his quiver he hid me.
“Ta đã làm cho con nên sự sáng các dân tộc, để con trở thành ơn cứu độ Ta ban cho đến tận cùng trái đất”.
(Bài Ca thứ hai của người Tôi tớ Chúa)
Trích sách Tiên tri Isaia.
Hỡi các đảo, hãy nghe tôi đây; hỡi các dân tộc miền xa xăm, hãy chú ý: Chúa đã kêu gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, đã nhớ đến tên tôi khi tôi còn ở trong bụng mẹ. Người đã làm cho miệng tôi nên như lưỡi gươm sắc bén, đã bảo vệ tôi dưới bóng cánh tay Người, đã làm cho tôi nên như mũi tên nhọn, và đã ẩn giấu tôi trong ống đựng tên. Và Người đã phán cùng tôi: “Hỡi Israel, ngươi là tôi tớ Ta, vì Ta sẽ được vinh hiển nơi ngươi”.
Jesus proceeded on his journey up to Jerusalem. As he drew near to Bethphage and Bethany at the place called the Mount of Olives, he sent two of his disciples. He said, “Go into the village opposite you, and as you enter it you will find a colt tethered on which no one has ever sat. Untie it and bring it here.
Entrée messianique du Seigneur à Jérusalem : (Lc 19, 28-40)
Évangile de Jésus Christ selon saint Luc
En ce temps-là, Jésus partit en avant pour monter à Jérusalem. Lorsqu’il approcha de Bethphagé et de Béthanie, près de l’endroit appelé mont des Oliviers, il envoya deux de ses disciples, en disant : « Allez à ce village d’en face. À l’entrée, vous trouverez un petit âne attaché, sur lequel personne ne s’est encore assis. Détachez-le et amenez-le.
That night the LORD spoke to Nathan and said: “Go, tell my servant David, ‘Thus says the LORD: Should you build me a house to dwell in? And when your time comes and you rest with your ancestors, I will raise up your heir after you, sprung from your loins, and I will make his kingdom firm.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con “Tại sao các ông mở dây?”, thì hãy nói thế này: “Vì Chúa cần dùng đến nó”. Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo.
“Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của Ðavít, tổ phụ Người”.
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Nathan rằng: “Hãy đi nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng: Khi ngày của ngươi đã viên mãn, ngươi sẽ yên nghỉ với các tổ phụ ngươi; sau đó, Ta sẽ cho miêu duệ ngươi lên kế vị và Ta sẽ làm cho triều đại người được vững bền. Chính người sẽ xây cất một ngôi nhà để kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngôi báu triều đại người được củng cố đến muôn đời.
King Nebuchadnezzar said: “Is it true, Shadrach, Meshach, and Abednego, that you will not serve my god, or worship the golden statue that I set up? Be ready now to fall down and worship the statue I had made, whenever you hear the sound of the trumpet, flute, lyre, harp, psaltery, bagpipe, and all the other musical instruments; otherwise, you shall be instantly cast into the white-hot furnace; and who is the God that can deliver you out of my hands?”
“Người đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ Người”.
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, vua Nabucôđônôsor nói rằng: “Hỡi Sidrach, Misach và Abđênagô, có phải các ngươi không chịu thờ các thần của ta và lạy tượng vàng ta đã dựng không? Vậy nếu các ngươi đã sẵn sàng, thì lúc nghe tiếng kèn, tiếng huyền cầm, tiếng còi, quyển sáo và các thứ nhạc khí, các ngươi phải sấp mình thờ lạy tượng ta đúc.
From Mount Hor the children of Israel set out on the Red Sea road, to by-pass the land of Edom. But with their patience worn out by the journey, the people complained against God and Moses, “Why have you brought us up from Egypt to die in this desert, where there is no food or water? We are disgusted with this wretched food!”
“Ðây tôi phải chết, dù tôi không làm điều họ vu khống cho tôi”.
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, có một người đàn ông ở Babylon tên là Gioakim cưới bà vợ tên là Susanna, con của Helcia, bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa, vì cha mẹ bà là những người công chính, đã dạy con cho biết giữ luật Môsê. Lúc đó Gioakim rất giàu có, ông có một khu vườn gần nhà ông, các người Do-thái năng lui tới nhà ông, vì ông là người đáng kính hơn mọi người khác.
In Babylon there lived a man named Joakim, who married a very beautiful and God-fearing woman, Susanna, the daughter of Hilkiah; her pious parents had trained their daughter according to the law of Moses. Joakim was very rich; he had a garden near his house, and the Jews had recourse to him often because he was the most respected of them all.
Trong cuộc đời của mình, chúng ta có khuynh hướng đưa ra một giá trị cao hơn về nhân đức tốt lành – sự tử tế rõ rệt, thông thường và diễn ra hằng ngày. Khi nhìn lại cuộc sống của mình, chúng ta cảm thấy tiếc nuối, khi nhớ đến những hành vi thiếu sự tử tế. Nhưng khi nhớ lại những hành động ân cần tận tuỵ của mình, thì đó thật là những giây phút đáng yêu. Sự tử tế chủ yếu là lẽ công bằng đích thực. Đức Giêsu đặc biệt thương cảm đối với những kẻ mà người ta đưa ra cho Người phán xét. Một ví dụ kinh điển là câu chuyện nói về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Càng đi sâu vào mùa Chay, ta càng đi sâu vào tình yêu của Thiên Chúa. Tuần trước ta đã được tắm gội trong tình yêu tràn trề của người cha nhân hậu. Tuần này ta lại được hưởng nếm lòng khoan dung nhân hậu của Chúa Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày một phiên toà. Bị cáo là người phụ nữ. Nguyên cáo là các Kinh sư và những người Pharisêu. Tội phạm là tội ngoại tình. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thực ra họ không cần đến Chúa Giêsu làm quan toà.
Thus says the LORD, who opens a way in the sea and a path in the mighty waters, Who leads out chariots and horsemen, a powerful army, Till they lie prostrate together, never to rise, snuffed out and quenched like a wick.